[tintuc]
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ĐIỀU 175 BLHS
Tham vấn bởi Luật sư Nguyễn Hải Lăng
Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Hồng Nhung
????Cảnh giác với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – không phải mọi “vỡ nợ” đều là dân sự
Về vấn đề này, Luật sư Nguyễn Hải Lăng giải đáp như sau:
1. Hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên thì mới phạm vào tội này, nếu dưới bốn triệu đồng thì phải hội đủ các điều kiện khác của điều luật như gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
2. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm
* Khách thể của tội phạm: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xâm phạm quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản bao gồm: vật, tiền.
* Mặt khách quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện bằng một trong các hành vi sau:
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đã đến thời hạn trả lại tài sản và mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.Như vậy, chỉ các trường hợp người nhận được tài sản đã sử dụng tài sản đó vào “mục đích bất hợp pháp”, như: buôn lậu, mua bán ma túy, đánh bạc,… dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản, mới bị coi là phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Còn đối với các trường hợp vay, mượn tiền với số lượng lớn, sau đó sử dụng vào việc ăn chơi, tiêu xài hoang phí dẫn đến không khả năng trả nợ, lại không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc dùng tiền vay, mượn để ăn chơi, tiêu xài… tuy có trái với đạo đức xã hội nhưng lại không được xem là việc làm “bất hợp pháp”. Thực tế hiện nay, các vụ vỡ nợ, hụi lên đến hàng tỷ đồng xảy ra phổ biến ở nhiều địa phương đã làm cho bao người điêu đứng vì mất tiền, nhưng xử lý hình sự các trường hợp này lại gặp nhiều khó khăn, chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, thậm chí, nếu xử lý sẽ bị quy kết là “Hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế”.
Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ bị coi là phạm tội nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 4.000.000 đồng trở lên. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới 4.000.000 đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích...), đồng thời trong các hành vi đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của các lần chiếm đoạt này từ 4.000.000 đồng trở lên, thì hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo tổng giá trị tài sản của các lấn chiếm đoạt.
Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 4.000.000 đồng cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiểm sống chính của người bị hại và gia đình họ,
Tội phạm hoàn thành từ thời điểm thực hiện một trong các hành vi nêu trên.
* Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
* Mặt chủ quan của tội phạm: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
3. Về hình phạt
Điều 175 quy định 04 khung hình phạt:
- Khung 1:
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
+ Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
+ Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
- Khung 2:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Có tổ chức;
- Có tính chất chuyên nghiệp;
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tái phạm nguy hiểm.
- Khung 3:
Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
- Khung 4:
Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
- Hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Luật sư Nguyễn Hải Lăng chia sẻ: Tôi từng tư vấn và bảo vệ quyền lợi cho nhiều bị hại trong các vụ việc vay tiền bằng hợp đồng, nhưng thực chất là để lừa chiếm đoạt. Việc chứng minh yếu tố lạm dụng tín nhiệm và mục đích chiếm đoạt ngay từ đầu là điều then chốt để cơ quan điều tra khởi tố đúng tội danh.
Các trường hợp “vỡ hụi”, “ôm tiền bỏ trốn”, “kéo dây hụi”, “dùng danh nghĩa đầu tư nhưng không trả tiền gốc” nếu có dấu hiệu gian dối ngay từ đầu, hoàn toàn có thể xử lý hình sự không phải cứ mang danh “giao dịch dân sự” là được thoát tội.
📞Công ty Luật TNHH Hồng Hạnh Vân Canh sẵn sàng hỗ trợ pháp lý trong các vụ án hình sự, đặc biệt là tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Với đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm, chúng tôi cam kết đồng hành và bảo vệ tối đa quyền lợi hợp pháp của quý khách hàng.
CÔNG TY LUẬT TNHH HỒNG HẠNH VÂN CANH
Địa chỉ: Số 5, Liền kề 27, Khu đô thị HUD Vân Canh, Hoài Đức, Hà Nội
Điện thoại: 0944.656.886
Email: Lsnguyenhailang1404@gmail.com
Website: www.luathonghanh.vn
[/tintuc]